Bài Kinh giáo giới Thi-ca-la-việt
(Singalovāda sutta, Dīgha Nikāya)

Lời giới thiệu
Khi đạo Phật được truyền bá vào Việt nam khoảng gần hai ngàn năm trước, kinh điển, giáo lý còn rất hạn chế do sự di chuyển người và hàng hóa thời xưa bị rất nhiều hạn chế. Theo sử sách ghi lại, một trong những bài kinh đầu tiên được dịch sang Tiếng Việt là Kinh An-ban-thủ-ý (Anapanassati) – tức kinh niệm hơi thở vào hơi thở ra. Đó là một bài kinh dạy tu thiền hơi thở và thiền Tứ Niệm xứ. Như vậy có vẻ như thời kỳ đầu tiên, Đạo Phật được truyền bá ở Việt nam là Đạo thiền. Các nhà sư đầu tiên đến nước Lạc Việt bằng đường biển, từ Ấn độ dương qua bờ đông Thái bình dương mà Luy Lâu, trung tâm văn hóa của Lạc Việt là một điểm dừng trên chặng đường hoằng pháp theo các đoàn thương buôn đường biển.
Làn sóng giao thoa văn hóa, tín ngưỡng và triết học thứ hai, thứ ba khi Đạo Phật đến Việt nam qua phương bắc -Trung Quốc- truyền đến Việt nam vào khoảng thế kỷ thứ 6-7 sau công nguyên cũng là các tông phái của thiền tông. Đó cũng là thời kỳ ở Ấn Độ nền triết học và học thuật Phật giáo phát triển rực rỡ nhất ở đại học Phật giáo Nalanda với tư tưởng phát triển mà sau này gọi là đại Thừa và các luận sư nổi tiếng như Long Thọ (Nagarunja), Thế Thân (Vasabandhu), Vô Trước (Asanga), Tịch Thiên (Santideva), vv. Phật giáo thời kỳ này mang đặc trưng của triết thuyết, lý luận siêu hình, và hình ảnh của Đức Phật cũng dần đi xa hơn vào cõi huyễn hoặc, trừu tượng hơn là một nhân vật lịch sử gần gũi với mọi người.
Theo cách đó, tu Phật hay đến cửa Phật người ta mong ước có được những mối liên hệ với thần thánh, với những năng lực siêu nhân, mà ít người để ý đến những người ‘phàm’ xung quanh mình. Phật trở nên xa xôi, bồ tát cũng ảo hóa, nên dần dần người ta đối xử với những hình tượng này cũng như các vị thần linh, tiên thánh, để cầu xin, để phù hộ độ trì các chúng sinh bên ngoài.
Với tư tưởng Bồ tát ngày càng phát triển, Đức Phật và Thánh chúng, bồ tát đi vào huyền thoại như các hóa thân, huyễn thân đi mây về gió thuyết pháp độ sinh với những năng lực siêu phàm và cách xuất hiện cũng phi phàm ảo diệu.
Qua nhiều thế hệ, người ta dần quên mất Đức Phật là một nhân vật lịch sử, đã từng đi chân trần trên những con đường ghồ ghề sỏi đá của xứ Ấn độ cổ xưa, đã từng gặp gỡ đủ các hạng người người trong xã hội.
Thật đáng tiếc, cả mấy ngàn năm do phương tiện đi lại giao lưu khó khăn, việc dịch truyền kinh điển cũng có nhiều hạn chế, và cũng do việc giao thoa, trao đổi văn hóa không được khuyến khích trong thời Trung cổ, rất nhiều kho tàng quí báu và thiết thực nhất trong kinh điển nguyên thủy đã bị bỏ quên, hay bị xem như ‘tiểu thừa’, nên không được quan tâm đến. Những lệch lạc trong cách hiểu và hành trì Đạo Phật càng ngày càng xa rời thực tế, đến nỗi nó đã trở thành đạo của người già và người chết mà thôi. Điều này cũng mang đến những hệ lụy không nhỏ khác, đó là do nhu cầu cầu cúng ở các đền-chùa, thầy tu đã biến thành thầy cúng. Và mọi người mặc nhiên xem đây là hệ quả đương nhiên của thời mạt pháp!
Thực ra Pháp Phật chưa bao giờ mạt, chỉ có những người, dưới ảnh hưởng của những điều kiện khác nhau, không được học và hành đầy đủ những giá trị chân thật không bị biến hoại bởi thời gian và quốc độ, đã làm cho Pháp mạt, rồi lại đổ lỗi cho thời mạt pháp thì phải thế!
Mãi đến cuối thế kỷ hai mươi, người Việt, được xem là một đất nước theo Phật giáo gần hai ngàn năm, mới có cơ hội được đọc tất cả Kinh Phật, mà không bị cái định kiến Đại thừa, Tiểu thừa ngăn ngại. Công đức của cố đại lão Ht Minh Châu thật to lớn trong việc chuyển ngữ các tạng Nikaya từ Tiếng Pali sang Tiếng Việt. Lành thay, trong năm tạng kinh bộ (Nikaya) có những bài kinh rất thiết thực liên quan đến đời sống đạo đức căn bản của con người. Đó là nhưng mối liên hệ giữa con người với con người, cách cư xử với những người gần gũi và mật thiết với mình nhất trong gia đình và ngoài xã hội.
Đó là những bài kinh Đức Phật dạy chúng ta tu với những người xung quanh mình, chứ không phải là tu với Phật, với thánh xa xôi đâu đó trong ba ngàn thế giới. Bài kinh giáo giới Singala (Thiện sinh) là một trong những bài kinh như vậy. Đức Phật xuất hiện như một bậc thầy đi giữa nhân gian, giáo hóa những người lầm lạc ‘rất thật’ như chúng ta vẫn thường khi chưa biết đạo.
Thiện Sinh đã từng là một chàng trai trẻ ương bướng không chịu học đạo theo truyền thống gia đình, vì chàng nghĩ chùa chiền và các vị thầy tu chẳng liên hệ gì đến đời mình. Cha của thanh niên này từng là một thiện tín thời Đức Phật. Ông đã rất cố gắng để trao truyền những giá trị tinh thần và văn hóa cho con, nhưng chàng trai không hề để tâm. Cho đến một ngày ông bị bạo bệnh và biết rằng không còn thời gian nữa. Trên giường bệnh, ông gọi người con đến và bằng nỗ lực cuối cùng dặn con sau khi cha chết hãy lễ bái sáu phương nơi ngã ba đường! Ông đã hy vọng rằng, khi con ông vì tôn trọng lời trăn trối của cha mà làm như vậy và sẽ có cơ hội gặp Phật, bậc Điều Ngự trượng phu có khả năng giáo hóa những chúng sinh có duyên với Phật pháp. Niềm mong mỏi của người cha già đã được toại nguyện khi con trai ông đang lễ bái sáu phương theo cách hiểu ‘thiệt thà’ của anh ta thì Đức Phật xuất hiện trên đường và đã cắt nghĩa tường tận cho Singala ý nghĩa đích thực của việc lễ bái sáu phương. Cũng trong cuộc hội thoại này dạy chàng trai cách kết bạn, chọn bạn, cách sống đời sống của một con người bình thường như thế nào để ít phiền lụy, ít khổ đau vấp ngã nhất. Đó cũng là cách sống để được an vui hạnh phúc đầy đủ nhất trong vai trò của một con người trong mối liên hệ với gia đình, xã hội và con đường tiến hóa trong thế giới loài người.
Kinh văn viết:

Như vậy tôi nghe.

  1. Một thời Thế Tôn sống ở Ràjagaha (Vương Xá thành), tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivàpa (chỗ tìm ăn của loài sóc). Lúc bấy giờ, Singàlaka (Thi-ca-la-việt), con trai của một gia chủ, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.
  2. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực. Thế Tôn thấy Singàlaka, con trai của một gia chủ, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng. Thấy vậy Ngài nói với Singàlaka, con trai gia chủ:

– Này con trai Gia chủ, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông… hướng Thượng?

– Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con: “Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng”. Bạch Thế Tôn, con tin tưởng, cung kính, tôn trọng, và phụng hành lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông… hướng Thượng.

– Này con trai Gia chủ, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.

– Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!

Lễ Bái Sáu Phương Trong Đạo Phật-

– Này con trai Gia chủ, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Singàlaka, con trai gia chủ vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

  1. – Này con trai Gia chủ, đối với vị Thánh đệ tử, bốn nghiệp phiền não được diệt trừ, không làm ác nghiệp theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân để tán gia bại sản. Vị này, nhờ từ bỏ mười bốn ác pháp, trở thành vị che chở sáu phương; vị này đã thực hành để chiến thắng hai đời, vị này đã chiến thắng đời này và đời sau. Sau khi thân hoại mạng chung, vị này sanh ở tốt đẹp, nơi thiên giới.

Thế nào là bốn nghiệp phiền não đã được diệt trừ? Này con trai Gia chủ, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo. Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

  1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

Sát sanh và trộm cắp,
Nói láo, tham vợ người,
Kẻ trí không tán thán,
Những hạnh nghiệp như vậy.

  1. Thế nào là không làm ác nghiệp theo bốn lý do? Ác nghiệp làm do tham dục, ác nghiệp làm do sân hận, ác nghiệp làm do ngu si, ác nghiệp làm do sợ hãi. Này con trai Gia chủ, vì vị Thánh đệ tử không tham dục, không sân hận, không ngu si, không sợ hãi, nên không làm ác nghiệp theo bốn lý do.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

  1. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

Ai phản lại Chánh pháp,
Vì tham, sân, sợ, si,
Thanh danh bị sứt mẻ
Như mặt trăng đêm khuyết.
Ai không phản Chánh pháp,
Vì tham, sân, sợ, si,
Thanh danh được tròn đủ,
Như mặt trăng đêm đầy.

  1. Thế nào là không theo sáu nguyên nhân khiến tán gia bại sản? Này con trai gia chủ, đam mê các loại rượu là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố khuya khoắt là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà đình đám hí viện là nguyên nhân phung phí tài sản. Ðam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du bạn xấu là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.
  2. Này con trai Gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: Tài sản hiện tại bị tổn thất, bất hoà thường xẩy ra, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại. Này con trai Gia chủ, đam mê các loại rượu có sau nguy hiểm như vậy.
  3. Này con trai Gia chủ, du hành đường phố khuya khoắt có sáu nguy hiểm: Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài sản không được che chở hộ trì, bị tình nghi là tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não. Này con trai du hành đường phố không đúng lúc (phi thời) có sáu nguy hiểm như vậy.
  4. Này con trai Gia chủ, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm: Luôn luôn tìm xem chỗ nào có múa, chỗ nào có ca, chỗ nào có nhạc, chỗ nào có tán tụng, chỗ nào có nhạc tay, chỗ nào có trống. Này con trai Gia chủ, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm như vậy.
  5. Này con trai Gia chủ, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm: Nếu thắng thì sanh oán thù, nếu thua thì tâm sanh sầu muộn, tài sản hiện tại bị tổn thất, tại hội trường (pháp đình) lời nói không hiệu lực, bằng hữu đồng liêu khinh miệt, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm vì người đam mê cờ bạc không xứng để có vợ. Này con trai Gia chủ, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm như vậy.
  6. Này con trai Gia chủ, thân cận các bạn ác có sáu nguy hiểm: Những kẻ cờ bạc, loạn hành, nghiện rượu, những kẻ trá ngụy, lường gạt, bạo động là những người bạn, là những thân hữu của người ấy. Này con trai Gia chủ, thân cận bạn ác có sáu nguy hiểm như vậy.
  7. Này con trai Gia chủ, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm: “quá lạnh”, không làm việc; “quá nóng”, không làm việc; “quá trễ” không làm việc; “quá sớm”, không làm việc; “tôi đói quá”, không làm việc; “tôi quá no”, không làm việc. Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng lên, tài sản có rồi bị tiêu thất. Này con trai Gia chủ, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm như vậy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
  8. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm về BẠN XẤU—

Có bạn gọi bạn rượu,
Có bạn, bạn bằng mồm,
Bạn lúc thật hữu sự,
Mới xứng danh bạn bè.
Ngủ ngày, thông vợ người,
Ưa đấu tranh, làm hại,
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Ác hữu, ác bạn lữ,
Ác hạnh, hành ác xứ,
Ðời này cả đời sau,
Hai đời, người bị hại.
Cờ bạc và đàn bà,
Rượu chè, múa và hát
Ngủ ngày, đi phi thời
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Chơi xúc xắc, uống rượu
Theo đuổi đàn bà người,
Lẽ sống của người khác,
Thân cận kẻ hạ tiện,
Không thân cận bậc trí,
Người ấy tự héo mòn,
Như trăng trong mùa khuyết.
Rượu chè không tiền của,
Khao khát, tìm tửu điếm,
Bị chìm trong nợ nần,
Như chìm trong bồn nước,
Mau chóng tự hại mình,
Như kẻ mất gia đình.
Ai quen thói ngủ ngày,
Thức trọn suốt đêm trường,
Luôn luôn say sướt mướt,
Không thể sống gia đình.
Ở đây ai hay than:
Ôi quá lạnh, quá nóng,
Quá chiều, quá trễ giờ,
Sẽ bỏ bê công việc.
Lợi ích, điều tốt lành,
Bị trôi dạt một bên.
Ai xem lạnh và nóng,
Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
Làm mọi công chuyện mình,
Hạnh phúc không từ bỏ.

  1. Này con trai Gia chủ, có bốn hạng người phải xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người khéo nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
  2. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm, làm vì mưu lợi cho mình. Này con trai Gia chủ, như vậy là bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
  3. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Tỏ lộ thân tình việc đã qua; tỏ lộ thân tình việc chưa đến; mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình. Này con trai Gia chủ, như vậy là bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
  4. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Ðồng ý các việc ác; không đồng ý các việc thiện; trước mặt tán thán; sau lưng chỉ trích. Này con trai Gia chủ, như vậy là bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
  5. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Là bạn khi mình đam mê các loại rượu; là bạn khi mình du hành đường phố phi thời; là bạn khi mình la cà đình đám hý viện; là bạn khi mình đam mê cờ bạc. Này con trai Gia chủ, như vậy có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

  1. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

Người bạn gì cũng lấy,
Người bạn chỉ nói giỏi,
Người nói lời nịnh hót,
Người tiêu pha xa xỉ.
Cả bốn, không phải bạn,
Biết vậy, người trí tránh,
Như đường đầy sợ hãi.

BẠN TỐT

  1. Này con trai Gia chủ, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật: Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.
  2. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật: Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu. Này con trai Gia chủ, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.
  3. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật: Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn. Này con trai Gia chủ, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.
  4. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật: Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên. Này con trai Gia chủ, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.
  5. Này con trai Gia chủ, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật: Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn. Này con trai Gia chủ, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

  1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
Bạn chung thủy khổ vui,
Bạn khuyến khích lợi ích,
Bạn có lòng thương tưởng.
Biết rõ bốn bạn này,
Người trí phục vụ họ,
Như mẹ đối con ruột.
Người trí giữ giới luật,
Sáng như lửa đồi cao.
Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao,
Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Ðể kết hợp bạn bè:
Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.

SÁU PHƯƠNG CỦA NGƯỜI CÓ ĐẠO

  1. Này con trai Gia chủ, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào? Này con trai Gia chủ, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Ðông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.

Phương Ðông –Đạo của CHA MẸ và CON CÁI

  1. Này con trai Gia chủ, có năm trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Ðông: “Ðược nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời”. Này con trai Gia chủ, được con phụng dưỡng như phương Ðông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

Này con trai Gia chủ, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Ðông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Ðông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Phương NamĐạo Thầy- Trò–

  1. Này con trai Gia chủ, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: Ðứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này con trai Gia chủ, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

Này con trai Gia chủ, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Phương Tây – Đạo Vợ Chồng—–

  1. Này con trai Gia chủ, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không coi thường vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang cho vợ. Này con trai Gia chủ, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này con trai Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Phương Bắc – Đạo Bạn Bè-——-

  1. Này con trai Gia chủ, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Phương Dưới – Đạo Chủ- Tớ ———-

  1. Này Gia chủ, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương tưởng đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Phương Trên – Đạo Giữa người Tại gia và Bậc Tu Hành ——-

  1. Này con trai Gia chủ, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này con trai gia chủ , các vị Bà-la-môn, Sa-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời và hạnh phúc cao thượng của Niết bàn.

Này con trai Gia chủ, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

  1. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

Cha mẹ là phương Ðông,
Sư trưởng là phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc,
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ vì gia đình,
Ðảnh lễ phương hướng ấy.
Kẻ trí giữ Giới, Luật,
Từ tốn và biện tài,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác,
Bất động giữa hiểm nguy,
Người hiền, không phạm giới,
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
Từ ái, tâm bao dung,
Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành bất cứ ai,
Ðồng sự trong mọi việc,
Theo trường hợp xử sự.
Chính những nhiếp sự này,
Khiến thế giới xoay quanh,
Như bánh xe quay lăn,
Vòng theo trục xe chính.
Nhiếp sự này vắng mặt,
Không có mẹ hưởng thọ,
Hay không cha hưởng thọ,
Sự hiếu kính của con.
Do vậy bậc có trí,
Ðối với nhiếp pháp này,
Như quán sát chấp trì,
Nhờ vậy thành vĩ đại,
Ðược tán thánh, danh xưng.

  1. Khi được nghe vậy, Singàlaka, con trai gia chủ bạch Thế Tôn: “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Hiệu đính tháng 12, 2008

Chùa Tượng Sơn, xã Sơn Giang, Huyện Hương Sơn, Hà tĩnh

Tỳ Khưu Ni Pháp Hỷ -Dhammananda (PhD)

Active hours

7 -11 am và 14-21 pm giờ Việt Nam

Contact Us

Tỳ kheo ni Pháp Hỷ
Tịnh thất Metta Garden, Hòa Lạc

Thôn Lập Thành, Đông Xuân, Quốc Oai, Hà Nội, Việt Nam

Dhammaduta © 2024. All Rights Reserved.